Từ đạo đức quan dân gian đến những nhân vật nổi loạn trong Chèo

IMG_7751

Chúng ta đã xác định Chèo như một sân khấu giáo huấn đạo đức, đúng hơn, như một sân khấu giầu chất đạo đức, mà trước hết là những đạo đức từ quan niệm Nho giáo, Phật giáo. Chúng ta cũng đã xác định Chèo như một nghệ thuật, mà cụ thể là nghệ thuật sân khấu, nơi mà nội dung giáo huấn đạo đức được thể hiện trong các hình tượng nhân vật mà Chèo đã dày công xây đắp nên. Hay nói một cách khác thì Chèo đã thực hiện chức năng giáo huấn đạo đức thông qua những hình tượng nhân vật, bằng những hình tượng nhân vật.

 

  1. Chúng ta đã xác định Chèo như một sân khấu giáo huấn đạo đức, đúng hơn, như một sân khấu giầu chất đạo đức, mà trước hết là những đạo đức từ quan niệm Nho giáo, Phật giáo. Chúng ta cũng đã xác định Chèo như một nghệ thuật, mà cụ thể là nghệ thuật sân khấu, nơi mà nội dung giáo huấn đạo đức được thể hiện trong các hình tượng nhân vật mà Chèo đã dày công xây đắp nên. Hay nói một cách khác thì Chèo đã thực hiện chức năng giáo huấn đạo đức thông quanhững hình tượng nhân vật, bằngnhững hình tượng nhân vật.

00.1. Để khẳng định một lần nữa quan điểm trên, ta hãy nhớ lại một số hình tượng nhân vật nổi tiếng, rất quen thuộc của Chèo cổ. Thị Phương (Trương Viên) là hiện thân của chữ Hiếu, Thị Kính (Quan Âm Thị Kính) là hiện thân của chữ Nhẫn. Và ngay cả cô nàng Suý Vân, một đào pha trứ danh, một nhân vật “nổi loạn” mà các bạn sẽ thấy, ở đầu vở cũng là hiện thân của chữ Tòng trong đạo đức quan Nho giáo tam tòng, khi chàng Kim Nham đến hỏi cô làm vợ.

  1. Song lẽ, nếu cứ theo cái xu thế, cái cung cách lập luận như trên, thì chẳng hoá ra, tất cả các hình tượng nhân vật của Chèo cổ đều là hiện thân của quan niệm này hay quan niệm khác, chữ này hay chữ khác của đạo đức quan Nho giáo, Phật giáo… hay sao. Rất tiếc là, thực tế Chèo lại không như thế. Đúng là di sản Chèo cổ đã gắn liền với đạo đức quan Nho giáo, Phật giáo như ở các phần, các chương trên chúng tôi đã phân tích. Cụ thể là chúng tôi đã nói tới những hình tượng người phụ nữ được diễn tả trong chữ Hiếu, chữ Tòng, chữ Nhẫn… Nhưng khốn nỗi, những cái độc đáo, khác lạ của Chèo cổ thì lại không chỉ quy vào một chữ Tòngcủa Xuý Vân, hay một chữ Hiếucủa Thị Phương, một chữ Nhẫncủa Thị Kính, hay một chữ Nghĩa của Châu Long. Trong vở Quan Âm Thị Kính, bên cạnh một Thị Kính nhẫn nhục, chịu đựng, chính chuyên đến độ chín, còn có một Thị Mầu lẳng lơ, táo bạo, nổi loạn đến độ lệch. Trong vở Kim Nham, vào vở Xuý Vân tỏ ra chín chắn khi thực hiện chữ Tòng, nhưng sau đó, khi phụ Kim Nham mà say đắm Trần Phương, thì cô nàng Xuý Vân nhà ta đã suy nghĩ không chín và hành động một cách lệch rồi. Cái chất vừa chín vừa lệch ấy, hay đúng hơn là chín pha lệch ấy… đã làm nên thể chất riêng biệt của Xuý Vân. Rõ ràng là, bên cạnh những đào chín như Thị Phương, Thị Kính, Trinh Nguyên, Châu Long, những hiện thân của chữ Tòng, chữ Hiếu, chữ Nhẫn theo đạo đức quan mà Chèo cổ tôn thờ và truyền giáo, ta còn thấy lấp lánh, rất khác lạ là những đào phađào lệch… cũng lại là sự hiện thân của một đạo đức quan nào đó mà bây giờ Chèo có xu hướng ngả theo. Một cô Thị Mầu lẳng lơ đến táo bạo và liều lĩnh đến nổi loạn, một cô Xuý Vân đã phá vỡ tung ra cái bức tường lễ giáo gia đình phong kiến, nó ràng buộc cô, nó làm héo hon tuổi xanh của cô, rồi dìm chết cô trong đau khổ, tuyệt vọng và gần như điên loạn… Chỉ nguyên hai cô đó đã đủ làm cho vấn đề ở đây phức tạp và thú vị hơn rồi. Ta cần tìm hiểu để xác định xem thái độ của Chèo cổ đối với những nhân vật nữ lệchnữ pha này thực sự là như thế nào. Đây là vấn đề mấu chốt phải làm rõ; chỉ khi xác định được thực chất thái độ của Chèo cổ đối với các cô đào lệch kiểu như Thị Mầu, đào pha kiểu như Xuý Vân – thì ta mới có thể hiểu được, bây giờ Chèo cổ đã có một đạo đức quan như thế nào, bởi vì xét cho cùng thì cả Thị Mầu (lệch), cả Xuý Vân (pha) cũng không thoát khỏi tầm chi phối của đạo đức quan mà Chèo cổ chủ trương.

01.1. Bây giờ ta xét cô đào lệch đến độ lẳng lơ Thị Mầu. Xét về nguồn gốc xã hội thì Thị Mầu là con gái Phú ông, một nhà giầu ở nông thôn. Nhưng giầu là giầu thế thôi, chứ cô ta vẫn phải lao động như chăn trâu, chăn bò…

Song cái cô con gái nhà giầu này xét về mặt lao động thì có vẻ lười. Cô ta bỏ trâu để lên chùa ghẹo trai. Đến khi tiếng đế – đại diện cho dư luận quần chúng – lưu ý cô, thì cô lại nói một cách chỏng lỏn là “nhà tao còn ối bò”. Cô lên chùa thấy Thầy Tiểu cổ kiêu ba ngấn lông mày nét ngang thì mê liền và cái mê ấy thể hiện ở lời khen lấy khen để của cô “người đâu mà đẹp như sao băng ấy” để cho đám chị em dân làng phải chế và phê cô là “dơ”. Vậy là vừa mới làm quen với Thị Mầu thôi, ta đã thấy có vẻ – tôi xin nhắc lại là có vẻ – các cụ ta xưa, tức các nghệ sĩ, nghệ nhân Chèo cổ chê cô Thị Mầu về mặt đạo đức, ít nhất là về đường ăn, nết ở. Các cụ đã diễn tả cô với cái nết lười lao động, ăn nói chỏng lỏn… và đặc biệt, là cái tính lẳng lơ, như các bạn sẽ thấy cụ thể dưới đây.

Chúng ta đã biết, vừa lên chùa là cô Thị Mầu giở trò ghẹo trai ngay lập tức. Nhưng bây giờ, ta hãy tạm gác chuyện đó lại đã. Ta hãy tìm xem trong văn học dân gian có dấu vết nào khả dĩ cho một sân khấu rất giầu chất dân gian, hay đúng hơn là sân khấu dân gian có sự tham gia của các nhà Nho này không. Chắc bạn đọc không quên câu ca dao miêu tả cảnh:

Ba cô đội gạo lên chùa

                   Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư

Tôi nhấn mạnh để các bạn chú ý là 3 cô đội gạo lên chùa, 1 cô bỏ bùa cho sư. Như vậy là sao? Là cứ 3 cô lên chùa thì có 1 cô ghẹo Phật. Tỷ lệ ghẹo Phật của các cô gái nhà ta là một trên ba, một tỷ lệ khá cao đấy chứ! Thế thì cô Thị Mầu không phải là trường hợp hãn hữu, nếu không nói là khá phổ biến trong số chị em lên chùa. Vậy nếu các cụ ta chê, các cụ ta phê cô Thị Mầu thì hoá ra là phê, là chê một số lượng không nhỏ các chị em đấy… Tôi chót đi ra ngoài mạch sách, nói như hai cậu học trò Tôn Mạnh – Tôn Trọng, khi các cậu trách Thầy đồ, ông thầy vừa dạy học trò, vừa tơ tưởng đến phụ huynh gái của học trò… của Chèo cổ. Bây giờ tôi xin trở lại trường hợp Thị Mầu với cái tính lẳng lơ của cô. Thị Mầu lên chùa với cái áo tứ thân sặc sỡ mầu, với cái thắt lưng bao, cái váy rộng… tất cả như bay tung lên cùng với dáng đi ưỡn ẹo để tạo những đường cong của cơ thể trong cái không gian nhà chùa tĩnh mịch và trang nghiêm. Đặc biệt là đúng như ca dao dân gian đã tả, cái áo tứ thân của cô để lộ cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái căng phồng một khát vọng yêu đương. Cô “cưa”, cô tấn công Thầy Tiểu ào ào như vũ, như bão, hừng hực như bốc lửa. Cô vận dụng toàn thân với tất cả những gì có trên người vào cuộc ghẹo đầy lý thú này. Đôi mắt sắc như dao bổ cau liếc đi, liếc lại; đôi môi đỏ mọng lúc nào cũng cười nở như hoa; và nhất là lời bóng gió, ẩn ý đầy chất dân gian để “đánh” đi những lượng tin cần thiết mà da diết về phía Thầy Tiểu: Chỉ trong có vài phút đồng hồ mà cô Mầu gọi Thầy Tiểu đến mười lần:

Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Một cành tre, năm bẩy cành tre…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Trúc xinh trúc mọc sân đình…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Mẫu đơn giồng cạnh nhà chùa…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Muốn cho có thiếp có chàng…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Thầy như táo rụng sân đình…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Người đâu đến ở chùa này…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Đôi ta như cóc men tường…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi

Tri âm chưa tỏ tri âm…

          Ấy mấy Thầy Tiểu ơi (…)

Ai cũng thấy rõ rành rành là Thị Mầu lẳng lơ và cũng rõ rành là cái lẳng lơ ấy được trình bày bằng niềm say mê của cả người viết lẫn người diễn suốt bao đời và với bao thế hệ càng ngày càng đồng tình hơn là phản đối. Nhìn bề ngoài thì có vẻ các cụ ta xưa chê cô Thị Mầu ở cái nết đỏng đảnh, chỏng lỏn, ưỡn ẹo của cô. Nhưng thực chất thì dường như các cụ lại ngầm ý đứng về phía cô. Chả thế mà khi thấy cô, sau một trận cuồng phong ghẹo Tiểu thất bại thảm hại, các cụ đã để cô nói:

(Này Thầy Tiểu ơi)

Để em đứng ở cổng chùa

Em gọi Thầy Tiểu chẳng thưa em buồn.

Ai buồn, người khác buồn thì không nói làm gì, đằng này, cô Thị Mầu nhà ta mà buồn thì mới lạ, mới thương. Hoá ra các cụ ta, ít nhất, cũng có phần thông cảm với cô – Còn bây giờ, bình tĩnh lại để suy xét, thì ta thấy rằng, một cô gái như Thị Mầu ít ra cũng có mấy điểm cho là được.

– Thứ nhất: Có một tình yêu bốc lửa.

– Thứ nhì: Dám nói ra, dám phơi bầy ruột gan mình ra trước mọi người.

– Thứ ba: Dám thổ lộ tình yêu đó trước đối tượng, tức là chủ động tấn công – nói như cách nói hiện nay – mà không cần biết thái độ của đối phương thế nào.

– Thứ tư: Bất chấp dư luận xã hội, lễ giáo phong kiến, miễn sao đạt được dục vọng yêu đương cháy bỏng đó của mình. Đương nhiên là cô Thị Mầu cũng có cái dở – hay đúng như vở Chèo – qua lời đế – đã bảo – cái  của cô. Theo tôi thì cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng; mà đã yêu đương say đắm và dữ dội đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn nữa, dễ thương mà thôi. Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết – đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cô mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương bốc lên dữ dội và cung cách thể hiện cơn thèm khát đó đã đẩy cô đến tình thế của kẻ lao vào một việc, mà tất cả đều thấy là không thể thực hiện được. Do đó, người ta buồn cười cô Thị Mầu, chứ không ai, hoặc ít ai ghét cô. Riêng tôi thì tôi phục cô và thương cô, mặc dù cũng rất buồn cười cho cô.

Như vậy, xét cả trên hai khía cạnh ý đồ sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, chúng ta đều thấy hiện tượng Thị Mầu tuy có vẻ phức tạp, nhưng cũng lý giải được: Sự nghiêng về, đứng về phía cô, ta thấy ở cả hai khâu nói ở trên. Đã nói là nghiêng về, đứng về… thì phải nói cái đạo đức quan nào làm cơ sở cho chỗ đứng ấy. Ai cũng thấy rằng cô Thị Mầu không phải là hiện thân của tam tòng tứ đức rồi. Vậy thì cô là hiện thân của đạo đức quan nào đây? Ta có thể xác định và người ta cũng đã từng xác định cho cô chữ lẳng. Thế thì các cụ ta xưa, thông qua Chèo cổ, lại đứng về cái lẳng của cô, lại ca ngợi cái lẳng ấy hay sao? Một sự lý giải thẳng đuột như thế tất nhiên sẽ phạm sai lầm. Các cụ không hoanh nghênh, không tán dương cái lẳng ấy, mặc dù có lúc, do không kìm nổi bản thân, các cụ cũng tỏ ra là thú, là thích nó. Tuy nhiên, đó chỉ là cái thích, cái thú xét từ bản chát nghệ sĩ của các cụ. Còn với tư cách những nhà đạo đức học, các cụ có tỏ ra ít nhiều không hài lòng về cô, nhưng là sự không hài lòng của những người đã không nghiêm khắc lắm, sự không nghiêm khắc này chứng tỏ đạo đức quan của các cụ đã có phần đổi mới, ít nhất nó cũng thoáng hơn, khi nhìn nhận về đạo đức người phụ nữ. Bây giờ, cái đạo đức quan dân gian đã xen vào, rất bất ngờ nó lên ngôi chúa tể trong làng Chèo. Người ta bảo cô Thị Mầu là lẳng lơ, cô bèn đáp lại, theo cách nói của văn học dân gian:

Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn

Chính chuyên cũng chẳng son son để thờ.

Có hai cách lý giải về cái quan niệm nổi loạn được tóm gọn trong hai câu lục bát nổi tiếng ở trên và được nói qua mồm Thị Mầu một cách hết sức thuyết phục và thú vị – Thứ nhất, đó là cách dùng gậy ông lại đập lưng ông mà văn học dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo đức quan phong kiến luôn được tuyên ngôn một cách rất văn chương, rất có điển tích của những Nho gia, Đạo gia, Phật gia… đã tha hoá, những kẻ nói một đằng, làm một nẻo… mà chúng ta thấy rất rõ ở trò Việc làng. Thứ nhì, mà đây mới là điều đáng chú ý, nội dung giáo huấn của Chèo đã bị lấn át đi, lu mờ đi bởi nội dung xã hội và nội dung nhân bản. Nếu chúng ta cứ cố kiết đi tìm cái chức năng giáo huấn thông qua hình tượng Thị Mầu, như đã trình bày ở trên thì nhiều khi ta đã tìm buổi trưa không phải giờ Ngọ. Song qua Thị Mầu, ta lại có thể thấy ít nhất là những dấu vết xã hội in đậm trong hình tượng nhân vật. Những dấu vết đó là:

Thứ nhất: Sự mất tôn nghiêm của nhà chùa, nhà chùa biến thành một điểm ghẹo trai của các cô gái.

Thứ nhì: Đạo đức quan Nho giáo, Phật giáo đã không phải là độc tôn trong quan niệm của các tác giả, nghệ sĩ xưa, đặc biệt là quan niệm về đạo đức người phụ nữ.

Và điều quan trọng nhất là, một nội dung nhân bản đã tràn ùa vào Chèo, nó khiến cho cả cái nhà chùa vốn xám ngắt tĩnh mịch, trang nghiêm bỗng sặc sỡ, sinh động và rộn rã hẳn lên. Cuộc đời và con người đã vào Chèo với bản chất nhân bản của nó, ở đây là sự khát khao của tình yêu cùng với nội dung và ý đồ giáo huấn đã có từ lâu.

Vậy là cái sức mạnh của nội dung nhân bản đã có phần lấn lướt cái ý đồ giáo huấn của Chèo. Thế thì ta hãy tạm gác cái ý đồ giáo huấn ấy sang một bên, để dõi theo hành động rất bản năng, rất nhân bản của Thị Mầu, cô gái con nhà phú ông thừa lẳng lơ, nhưng lại thiếu học thức ấy. Lên chùa, cô dùng mọi cách để cầm, để nắm bằng được tay Thầy Tiểu. Sự mù quáng của cô được đấy lên cao điểm khi cô nắm chính tay mình, mà cứ ngỡ rằng, đó là tay người mình thích. Thị Mầu như là người trong mơ (hoá ra ai cũng thế thôi, khi đã chìm vào yêu đương thì cứ như người trong mơ ấy). Đến khi tỉnh ra, tức là nhận ra rằng, mình đã bị bỏ trơ lại một mình… thì Thị Mầu, bẽ bàng. Nếu như ở một cô gái khác, một cô gái có học, hoặc chín chắn hơn, thì sự bẽ bàng này sẽ còn hành hạ đeo đuổi cô ta rất lâu. Nhưng đằng này, chỉ sau một phút, Thị Mầu bèn nhận biết ngay, bèn tìm ra ngay cho mình một lối thoát. Nếu trước kia, khi tấn công Thẩy Tiểu, cô định nhìn xa, với cao… và nâng mình lên tầm cao xa đó, cô ăn nói cũng có lúc văn hoa đáo để (như ở đoạn trích ngót 10 lần cô gọi Thầy Tiểu ở trên, các bạn đã đọc), thì bây giờ, cô mới tỉnh đòn mà quay về với gần, thấp ngay bên mình, cạnh mình, ngang mình, hoặc đúng hơn là dưới tầm mình. Bây giờ Thị Mầu tuôn ra một tràng những ngôn từ thấp, sát như thài lài,rau rệubờ ao… cho sự khởi đầu nổi loạn của mình. Và cũng rất nhạy bén, một thứ nhạy bén của một cô gái đang tuổi đòi hỏi xác thịt, cô phát hiện ra cái chân lý rất gần cận với cô, hợp với nhận thức của cô: Ta về ta tắm ao ta; và lập tức Thị Mầu dụ Nô vào cuộc ăn nằm, mà nói theo cách nói của đại thi hào Nguyễn Du là cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.

Nô: Xay lúa, giã gạo cô chọn việc nào?

Mầu: Giã gạo, ta chọn giã gạo…

Nô: Cô về giã gạo ba giăng…

Và kết quả của việc ăn nằm này là, Thị Mầu hoang thai. Và sự kiện tầy đình hoang thai này đã dẫn tới Việc làng xử án Thị Mầu, một trò diễn đầy nội dung xã hội, cụ thể là nội dung phê phán xã hội mà chúng tôi đã trình bầy ở chương trên. Bây giờ, chúng ta theo dõi những hành động và lời nói của Thị Mầu, khi cô đối diện với pháp luật và quan toà xã thôn Việt Nam, nơi cô sinh ra, lớn lên và khát khao tìm kiếm hạnh phúc cho mình, nơi cô loanh quanh, luẩn quẩn, bùng nhùng trong cuộc kiếm tìm đó mà chẳng hề tìm thấy. Về phương diện này thì Thị Kính rất gần với Thị Mầu. Chẳng thế mà hai cô lại gặp nhau ở nhà chùa, rồi ở Việc làng, trong những hoàn cảnh thật trớ trêu, trong đó người nọ làm khổ người kia. Nhiều người thường lên án, hay ít nhất cũng giận cô Thị Mầu, vì cô đã làm khổ Thị Kính. Song theo tôi nghĩ thì Thị Kính cũng làm khổ Thị Mầu không kém. Thử hỏi, trong đời này có gì khổ hơn là yêu mà chẳng được yêu, để đến nỗi đẩy cô đến chỗ phá phách, nổi loạn. Sau cuộc ghẹo Thầy Tiểu không thành, cô Thị Mầu bèn làm lung tung lên. Cô phá phách, đập chuông, đập mõ nhà chùa, cô điên cuồng kéo Nô, một người đầy tớ vào cuộc ăn nằm cho nó bõ, nó hả – y như thể là một sự trả đũa mơ hồ nào đó đối với Thầy Tiểu. Và khi ra Việc làng, đối mặt với những vị tai to mặt lớn, chức sắc, có học đứng đầu làng xã, những con người đã hư hỏng về đạo đức, lại rất bẩn trong tính nết, đặc biệt là trên hai phương diện ăn và gái, những lão già sắp kề miệng lỗ lại còn đui mù, điếc lác mà ra sức khai thác những gì liên quan đến chuyện ăn nằm và kết quả của sự ăn nằm đó, khai thác những gì dính líu liên quan đến chuyện đó, lại còn lên giọng đạo đức giả (làng ta nay lệnh nghiêm phép cấm, cớ sao còn giở thói dâm phong) thì cô bèn dùng biện pháp trâu lấm vấy cànlấy gậy ông đập lưng ông: Ta hãy xem một đoạn:

Thị Mầu: (Đổ cho cả làng) Tôi nằm với ông này, ông này

Đồ Điếc, Hương Câm, Thầy Mù, Xã Trưởng không vị nào thoát khỏi đòn giáng của Thị Mầu, Hương Câm bị đổ vấy ú ớ vạch trời kêu oan.

Xã Trưởng: Mày chỉ láo, mày thấy ông ấy không nói được thì mày đổ liều. Con này ra trâu lấm vấy càn, ta không trị đi, thì nay người này chửa được, mai người kia cũng chửa được, rồi đến cả bà ấy nhà ông, hay bà nó nhà tôi chửa ra thì sao.

Đó là tất cả những gì Thị Mầu có thể làm được đối với cái xã hội làng xã lạc hậu nó hành hạ cô, lợi dụng cô. Còn đối với Thầy Tiểu thì sao? Thật tội nghiệp cho cả hai con người này. Thị Kính – Tiểu bị gọi ra hầu làng và bị đòn. Nàng vẫn câm lặng, vẫn nhẫn chịu, và cái chữ oan, chữ nhẫn nó là hai chữ vận vào suốt cuộc đời nàng, chỉ trừ khi nàng lìa bỏ cuộc đời này để bước sang thế giới bên kia… thì nàng mới được giải thoát. Thị Mầu thì vẫn mù quáng, một sự mù quáng do tình yêu hồn nhiên, chân thật tạo nên.

Mầu: Thầy Tiểu ơi

          Sự sau bia lẽ chối được nào

          Mới ăn trầu bữa nọ, lâu đâu, mà chối

          Thôi, đã trót vậy thì cứ nhận đi, rồi làng cho đoàn tụ, vợ chồng mình lại được ăn ở với nhau.

Vợ chồng mình lại được ăn ở với nhau – thì ra cái nguyên nhân sâu xa nhất, đồng thời là cái khát vọng yêu đương gia đình hạnh phúc, nó giản đơn là thế, bình dị là thế… mà không sao có thể thực hiện được, mà hễ cứ định thực hiện y như mắc tội, mắc nạn… Rõ ràng là, một nội dung nhân bản, một tinh thần nhân đạo đã là cái sức mạnh lớn lao nó lấn át đi, làm nhạt nhoà đi cái nội dung đạo đức và tinh thần giáo huấn của Chèo trong trường hợp này. Và chính nhờ có cái nội dung nhân bản ấy, cái tinh thần nhân đạo ấy mà Chèo cổ đã tạo nên hình tượng Thị Mầu, một đào lẳng bất tử.

01.2. Nhìn sang cô đào pha, đào thương Xuý Vân thì ta càng thấy cái nội dung nhân bản và tinh thần nhân đạo nó quán xuyến đường đi nước bước của nhân vật này, mặc dù vào vở, cô đã được xây dựng trong ý đồ giáo huấn, mà cụ thể là giáo huấn chữ Tòng. Nhưng ngay sau khi cô vừa mở miệng nói như sách, như nhiều cô gái ngoan nết khác trong Chèo: “Cha đặt đâu con xin ngồi đấy” để trả lời cha về việc Kim Nham hỏi mình làm vợ, thì liền bị Cả Sứt giáng trả lại rất đau. Cả Sứt nói theo kiểu nhại và giễu: “Cha đặt đâu con xin ngồi đấy! Đặt vào chỗ êm đẹp thì chớ, nhỡ ông ấy đặt mày vào đống chông, đống gai… mày cũng ngồi thì liệu có thủng ruột mày ra không?” ([1]). Như vậy rõ ràng là, đến đây cái lễ giáo tam tòng tứ đức, cái chữ Tòng mà bấy lâu nay Chèo tôn thờ, thì bây giờ lại làm trò cười. Nếu Chèo cười cái đó, thì Chèo nghiêm với cái gì, qua trường hợp Xuý Vân?

Chèo nghiêm với số phận cuộc đời người con gái bị chữ Tòng ràng buộc, và hơn nữa, nghiêm với sự nổi loạn của cô, khi cô định phá tung cái vòng lễ giáo đó. Vậy là Xuý Vân, khi tại gia thì tòng phụ. Cô tuyệt đối nghe theo lời cha, kể cả trong việc tầy đình là việc cả cuộc đời cô. Nhưng cha Xuý Vân là người thế nào? Là lão say, suốt ngày bí tửu, là người thiếu trách nhiệm với con cái, khi trao cho Cả Sứt, một anh chàng phá bĩnh về nhân cách và tật nguyền về ngoại hình, những việc cực kỳ hệ trọng của gia đình, trong đó có việc làm lễ vu quy cho cô em gái – như ta đã biết. Rõ ràng là, cái chữ Tòng mà vào vở, cô Xuý Vân nhà ta tuân thủ một cách tuyệt đối, tức là tòng cả phụ và tòng cả huynh (như người ta thì cha chết, anh mới thay cha, đằng này ở đây, cha còn sống lù lù ra đấy, mà Cả Sứt, cái ông cụ nhì ấy đã thay ông cụ nhất… thì đủ thấy tôn ti trật tự trong cái nhà này đã bị đảo lộn ngay từ đầu rồi). Trong hầu hết các vở Chèo cổ, các cô gái nhà ta đều có lời nói và hành động bị chi phối bởi chữ Tòng. Song trường hợp Xuý Vân thì chữ Tòng ấy được diễn tả như một cái gì vô lý, hoặc ít nhất cũng phải đem ra mà bàn tính, mà suy xét, như Cả Sứt từng nói. Mặt khác, chữ Tòng ấy đã được diễn tả như một điềm gở, nó báo trước cái bất hạnh mà rồi đây Xuý Vân sẽ phải gánh chịu. Điều gở ấy, Cả Sứt đã cảnh báo: Nhỡ ông ấy đặt mày vào đống chông đống gai mày cũng ngồi, thì liệu có thủng ruột mày ra không? Và cái điều gở ấy được diễn tả một cách tài tình, độc đáo qua trò tiến hành lễ vu quy mà Cả Sứt là chủ trò, một trò quái đản trong đó Cả Sứt làm linh tinh lên cho bằng hết, nghĩa là tất cả những gì là thiêng liêng, là hệ trọng của một đời người con gái ở cái bước ngoặt từ nhà mình mà xuất giá… đều bị đem ra mà giễu cợt, hơn nữa, đem ra mà nói gở, nói bậy. Xuất giá như thế, ra đi từ một chữ Tòng trong trường hợp như thế, cuộc đời Xuý Vân có chẳng ra gì sau này thì điều đó cũng đã có điềm báo trước.

Giọng điệu phản kháng lễ giáo phong kiến, hay ít nhất cũng đòi xem xét lại nó, ở trường hợp Xuý Vân, được nói lên ở thời kỳ đã xuất hiện kinh tế tiểu thị dân và những con người là sản phẩm của nó. Tôi muốn nhắc đến 2 nhân vật rất nổi của vở Chèo cổ này: Mụ Quán và Trần Phương mà tôi đã giới thiệu kỹ ở chương trên, những con người của kinh tế tiểu thị dân xuất hiện trong Chèo cổ.

Các cụ ta xưa có câu Nhàn cư vi bất thiện. Quả là cái tay Trần Phương này ra thành thị là để làm những điều bất thiện…

Bây giờ lại nói về nàng Xuý Vân của chúng ta. Ra đi từ một gia đình như thế, với ông bố như thế, ông anh cả như thế, lại đến gần nơi thành thị có những con người Mụ Quán, Trần Phương như thế… thân phận nàng bây giờ chỉ là một con ruồi mà tấm mạng nhện đã giăng sẵn chờ ([2]).

Về nhà chồng, đúng ra thì Xuý Vân phải thực hiện đạo tòng phu, mà đạo tòng phu phải lấy chữ trinh làm đầu. Nhưng đấng phu của nàng, đức ông chồng của nàng là Kim Nham đã cùng các sĩ tử lên Tràng An dùi mài kinh sử để chờ khoa thi, theo đuổi đường công danh. Nếu Xuý Vân tiếp tục là hiện thân chữ Tòng, chữ Trinh… thì nàng cứ ở vậy mà chịu đựng những ngày cô đơn, những đêm vò võ nơi nhà chồng. Nhưng không, Xuý Vân bây giờ đã không còn là người con gái của chữ Tòng hay chữ Trinh ấy nữa. Thêm vào đó, cái xã hội mà nàng sống, cái hoàn cảnh sống nó bao vây nàng đã tràn vào vở Chèo với những nhân vật mới như Mụ Quán, Trần Phương, đặc biệt là Trần Phương, như ta vừa thấy, nó không cho nàng theo các chữ đó nữa. Thêm một lần nữa, nội dung xã hội, cái nội dung nhân bản đã vào Chèo với tất cả sức mạnh của nó. Nó hầu như đã kéo nàng Xuý Vân của chúng ta bật ra khỏi cái quỹ đạo của đạo đức quan phong kiến, lễ giáo phong kiến, để đưa nàng lên con đường ray của nội dung nhân bản và tư tưởng nhân đạo. Từ đây, cuộc đời của Xuý Vân đã ngoặt sang một bến bờ mới, phụ Kim Nham mà say đắm Trần Phương, Xuý Vân đã phạm một lỗi lầm đầy tính bi kịch. Đó là lỗi lầm của người phụ nữ trên con đường phá bỏ những ràng buộc của đạo đức quan, của dư luận xã hội, nó vây hãm nàng; đó là con đường đi tìm hạnh phúc trong tình yêu và gia đình, cái hạnh phúc không có chỗ trong xã hội mà nàng sống. Về phương diện này, thì Xuý Vân có những điểm tương đồng với nhiều nhân vật phụ nữ trong kho tàng văn học, kho tàng bi kịch của nhân loại, mặc dù ở Xuý Vân và những nhân vật ấy (như nàng Katêrina trong Giông tố của Ôstrôpski) tuy mỗi người một hoàn cảnh, mỗi người một trường hợp và tất nhiên, mỗi người một cung cách hành động. Nhưng nàng Xuý Vân cũng như các nàng khác kia đều giống nhau ở một điểm là, cái lỗi lầm vô tội nó dẫn các nàng đến tấn bi kịch khủng khiếp. Xuý Vân, nghe theo sự dụ dỗ của Trần Phương, đã giả điên để được Kim Nham giải phóng cho, cụ thể là để Kim Nham ký vào tờ ly hôn cho cô. Chao ôi, một nguyện vọng giải phóng – cụ thể là giải phóng về tình yêu và hạnh phúc – lại phải trả giá bằng hành động giả điên. Và trong cơn đau khổ này, Xuý Vân đã từ giả dại mà phát điên thật. Nhân cách của Trần Phương như thế nào thì ta đã rõ. Cái tên Đông Zuăng phương Đông này, sau khi đã thoả mãn về xác thịt thì liền hất Xuý Vân ra lề đường, mà Xuý Vân trở thành kẻ ăn mày nửa điên nửa dại với cả nghĩa đen và nghĩa bóng của nó. Cái kết thúc của số phận cuộc đời nàng thật bi thảm. Nhận được nắm cơm do Kim Nham sau khi đã thi đỗ, đã công thành danh toại, bẻ ra có một khong vàng trong đó, Xuý Vân tủi nhục và tự tử (như thể nàng Katêrina từ mỏm đá cheo leo đâm đầu xuống sông Vonga mà chết).

Người ta đã và sẽ có nhiều lời bình, lời bàn, lời đánh giá về Xuý Vân. Riêng tôi, tôi thông cảm, và hơn nữa, thương xót cho nàng. Cho nên, từ lâu tôi đã mạo muội gọi nàng là đào thương, mặc dù biết rằng phải gọi là đào pha thì mới đúng…

  1. Và đến đây thì ta càng thấy rõ thâm tâm của các nghệ nhân, nghệ sĩ xưa. Các cụ đã từ xa xưa nơi tình cảm nhân đạo của mình mà bênh vực hai cô đào lẳng Thị Mầu, và đào thương Xuý Vân, hay ít nhất các cụ cũng thông cảm cho cô này, và thương cảm cho cô kia ([3]). Và đến đây thì ta có thể kết luận rằng, sức mạnh không gì ngăn cản nổi của một nội dung nhân bản, một chủ nghĩa nhân đạo theo cách nhìn, cách nghĩ và cách lý giải đầy mầu sắc dân gian Việt Nam đã lật đi lật lại để đổi mới nhiều quan niệm về đạo đức và con người. Và như các bạn đã thấy, điều đó đã tạo nên nhân tố đổi mới trong quan điểm nghệ thuật của Chèo cổ, để nó sáng tạo nên những hình tượng mới mẻ, sinh động, hấp dẫn và mang đậm dấu vệt xã hội, những hình tượng góp phần vào quá trình phát triển, và đổi mới của Chèo.
  2. Gia nhập vào hàng ngũ những nhân vật được gọi là nổi loạntrong Chèo còn phải kể cả ông anh Cả Sứt mà các bạn đã rất quen biết.

03.1. Kể ra xếp cậu Cả Sứt vào một nhóm với hai cô Thị Mầu, Xuý Vân, là xếp theo tinh thần phản kháng cái đạo đức quan chính thống đương thời mà ba nhân vật này là tiêu biểu. Còn những phương diện khác, như trường hợp số phận, như tính nết, tính cách, như cung cách xử sự… thì rõ ràng cậu Cả Sứt với hai cô Thị Mầu, Xuý Vân – là một trời một vực.

03.2. Cả Sứt là con cả Huyện Tể, đúng ra là con cầu tự. Chúng ta đã làm quen với gia đình này, khi phân tích trường hợp Xuý Vân, đặc biệt là khi nói đến cái lễ vu quy tổ chức cho Xuý Vân mà Cả Sứt được uỷ quyền của Huyện Tể đứng ra chủ trì.

Cả Sứt ăn nói lếu láo với bố, đối xử bủn xỉn với em… và điều đó có tác động giáo dục gì cho thế hệ trẻ hôm nay? Một anh bạn tôi, là một nhà hoạt động nghệ thuật, và một nhà giáo có tiếng, cũng phàn nàn rằng, việc Chèo đưa những tật nguyền thân thể con người ta lên sân khấu mà giễu cợt… đó là việc không nên, nếu không nói là thiếu nhân đạo. Và ta còn nhớ, có một dạo, khi chỉnh lý cải biên vở Chèo cổ này, người ta đã cắt bỏ trò Cả Sứt đi…

Vậy sự thể là như thế nào đây? Trước hết, tôi muốn nói về cái thói quen thường thấy trong Chèo là sự diễn tả tính chất không phù hợp của sự vật, con người, để qua đó, từ đó, bằng vào đó… mà khai thác, phát hiện cái hài của hiện thực cuộc sống đặng mà nghệ thuật hoá nó, cụ thể ở đây là Chèo hoá nó. Biện pháp mỹ học hài hước hoá, mà Chèo rất sở trường trong thi pháp của mình, đã tìm thấy ở tính không phù hợp này sự thể hiện rất có hiệu quả. Sự không phù hợp ấy, như tôi đã trình bày với các bạn độc giả, với Chèo cổ, đã được thể hiện trên nhiều phương diện, kể cả phương diện không phù hợp giữa ngoại hình các nhân vật và địa vị xã hội của nhân vật. Ta có thể nhớ lại các vị tai to mặt lớn trong làng, đại diện cho công lý trong vụ xử án Thị Mầu hoang thai… lại là các vị mù, câm, điếc… Và ở đây, ông anh cả trong gia đình thì tập trung tất cả những dị tật đến quái thai về ngoại hình cá nhân… nhưng lại phải đảm nhiệm một sứ mệnh rất quan trọng là làm lễ tơ hồng cho đứa em gái, và răn bảo nó, trước khi về nhà chồng.

Bây giờ, tôi xin đi ra ngoài lề một chút để bàn về những hiện tượng văn học mà tôi cho là gần với hiện tượng Chèo, cụ thể là hiện tượng Cả Sứt ở đây. Ta nhớ một Thị Nở trong chuyện Chí Phèo của Nam Cao… đã được nhà văn diễn tả trong bút pháp xấu xí hoá cái ngoại hình nhân vật, mà lại là nhân vật phụ nữ vốn được mệnh danh là phái đẹp. Thị Nở xấu đến nỗi trở thành điển hình của người đàn bà xấu. Thị Nở trở thành một điển hình văn học đến mức cô nàng đã từ trong sách của Nam Cao mà bước vào đời sống như một con người thật, con người điển hình cho phụ nữ xấu về ngoại hình, đặc biệt là xấu cả về nét mặt, khuôn mặt với hàm răng vổ, nhất là với cái mặt kỳ dị đến kỳ quái. Thường thường khuôn mặt con người ta, chiều từ đầu đến cằm, tức chiều dọc phải dài hơn chiều từ tai nọ sang tai kia, tức chiều ngang. Khuôn mặt tròn mà Nguyễn Du tả cho Thuý Vân là Khuôn trăng đầy đặn, cũng là tả một cách ước lệ thế thôi, chứ không ai hiểu rằng, mường tượng rằng, mặt Thuý Vân lại tròn xoay như cái đĩa. Và các cụ ta rất đề cao khuôn mặt trái xoan, nghĩa là mặt tròn, nhưng theo hình trái xoan có chiều dọc nhỉnh hơn chiều ngang. Đằng này, mặt Thị Nở thì lại là mặt trái xoan để nằm, nghĩa là khuôn mặt có chiều ngang lại dài hơn chiều dọc… Ấy vậy mà Thị Nở vẫn có quyền được yêu, hưởng cái sung sướng của cuộc ăn nằm trai gái, nó dẫn đến sự sinh sôi giữa đất trời một đêm trăng, bên bờ sông gió lộng khiến cho những tầu lá chuối phải rẫy lên đành đạch. Thị Nở lúc yêu, lúc bưng bát cháo tía tô cho Chí Phèo… thì rõ ràng đã là một phụ nữ chính cống. Nam Cao là một nhà nhân đạo lớn trong nhà văn, bởi vì ông đã nhìn Thị Nở, một người cực xấu về ngoại hình, bằng con mắt nhân bản, để từ đó phát hiện ra cái đẹp bên trong của Thị Nở, cái đẹp tiềm ẩn trong phái đẹp và được thức tỉnh, khi tình yêu, hạnh phúc đến. Từ yêu đương, tỏ tình, chăm sóc người tình và làm tình… đó là quyền của tất cả mọi người, của tất cả phụ nữ, chứ không phải chỉ dành cho các chị em may mắn có sắc đẹp ngoại hình. Nếu thế thì đa số chị em khác chết già hay sao, bởi vì, nếu thống kê thì tôi tin chắc rằng, số chị em đẹp về ngoại hình, về khuôn mặt, không phải là nhiều. Trong một cuốn sách bàn về văn học trào tiếu thời Trung cổ, qua tác phẩm của Phơrăngxoa Rable, nhà nghiên cứu Bakhtin đã dẫn bức tranh nổi tiếng Bà già chửa (trưng bày tại bảo tàng Ermitagiơ tại S. Pêtécbua của nước Nga) với biện pháp mỹ học sáng tạo hình tượng kỳ dị với sự xấu xí hoá cái ngoại hình, để lột tả cái nhân bản, để nói lên cái nhân đạo, nó là nội dung muôn đời và linh hồn muôn đời của văn học.

Theo Bakhtin, đằng sau cái hình tượng kỳ dị Bà già chửa cười nhăn nhở ấy, là sự thụ thai, là sự sinh sôi, nảy nở, mà sau đó là cuộc sống mới ([4]). Bà già mà chửa thì mới lạ kỳ, chứ các chị em trẻ, hoặc trung niên mà có thai thì ai còn lạ gì.

Song sự sinh đẻ, đó là quyền của tất cả phụ nữ chúng ta, kể cả người già. Nếu từ cách nhìn của Uỷ ban Dân số kế hoạch hoá gia đình, thì các bà mà đẻ là không hay rồi. Song tôi nghĩ, nếu bà già mới có một con, hoặc chưa có con nào, mà đẻ thì cũng hay chứ sao. Và ta nên coi đó là hiện tượng hiếm quý, nên có thưởng, ít nhất là tặng lụa hoặc một tặng phẩm gì đó. Riêng tôi, tôi xin nói một cách nghiêm chỉnh rằng, nếu có bà già nào mà vẫn đẻ được, theo đúng tiêu chuẩn của UBDSKHHGĐ, thì tôi vui mừng bái phục và xin đến tận nơi thăm hỏi và tặng quà. Xin bạn đọc nhớ cho, đây là lời hứa danh dự!

Bây giờ ta trở lại trường hợp Cả Sứt. Anh ta đã sứt, lại thọt, lại khèo, nghĩa là bao nhiêu cái dị tật của một con người nó đổ cả vào anh… Nói như các cụ thì anh đã gánh tất cả sự rủi ro cho mọi người trong nhà Huyện Tể, là cha đẻ của Xuý Vân rồi. Vì tật nguyền ở cấp độ ấy, nên anh ta đâm ra như thế về tính nết, về lời ăn tiếng nói, về cách đối già, đối giảm với bố, về cách quá ki bo đối với em, khi nó về nhà chồng, và nhất là về cách làm cho cái lễ Tơ hồng, vốn rất trang nghiêm kia, trở nên một trò cười, và còn trên cả cười… là chẳng đâu ra đâu vào đâu cả. Xem ra, xét về ngoại hình lẫn tư chất, cả về lời nói lẫn việc làm, Cả Sứt không phù hợp với địa vị, vị trí và sứ mạng của ông anh Cả. Nhưng thử hỏi, trong cái nhà ấy… thì còn ai làm sứ mạng đó, ngoài Cả Sứt. Bởi vì “ông cụ nhất”, tức bố của Xuý Vân và Cả Sứt, thì đã như thế: Lúc nào ông cũng say, cho nên Chèo cổ đã gọi ông bố này là Lão say, mà say đến mức không còn phân biệt được sự vật khách quan nữa… nên mọi việc trong nhà, kể cả những việc hệ trọng, mới phải nhờ đến Cả Sứt. Tình huống đã đẩy gia đình này, đến chỗ phải dùng một con người không xứng, không phù hợp cả về mọi mặt, với công việc mà anh ta được giao làm. Mà trên đời này, thiếu gì trường hợp như thế. Người ta vẫn cứ giao việc, mà là việc lớn, cho những người không đủ tư cách, tư thế… làm việc đó. Bởi thế cho nên họ mới hiện diện trước xã hội như những nhân vật hài kịch chính cống. Họ càng cố làm cái công việc đáng lẽ không làm được ấy bao nhiêu, thì nom họ càng buồn cười và thảm hại bấy nhiêu…

Cả Sứt cũng không ở ngoài trường hợp hài kịch này. Có điều, anh ta chẳng những không hề tự ti, không hề mặc cảm trước sự không phù hợp đó, mà còn lợi dụng nó mà làm trò cười cho thiên hạ. Hãy xem Cả Sứt dạy Xuý Vân yểu điệu thục nữ.

Cả Sứt: Ối giời ơi! Thế mà cũng đòi làm con gái. Con gái thì phải yểu điệu thục nữ, quân tử người ta mới hảo cầu chứ ([5]). Đưa quạt đây, anh làm con gái cho mà học. Tiếng vậy anh cũng là con gái đây.

Một trò diễn khiến khán giả ôm bụng cười. Cả Sứt cầm cái quạt che mặt vẻ thẹn thùng, chân tay người ngợm cố làm ra dáng một cô gái yểu điệu. Chao ôi, cái hình ảnh cô gái đẹp yểu điệu lại hiện lên trên thân hình Cả Sứt, thì thật là sự không phù hợp đã đạt tới chỗ tuyệt đỉnh của nó. Vấn đề là Cả Sứt đã lợi dụng chính cái không phù hợp đó để đạt tới sự không phù hợp khác. Có thể là, anh ta đã không khoái gì cái trò cưới xin vu quy theo kiểu lễ giáo phong kiến này. Chẳng hạn, cái chữ Tòng mà các cụ ta, qua Chèo cổ tôn thờ, thì bây giờ, đã bị Cả Sứt phê phán. Cho nên, khi thấy Xuý Vân trả lời cha là “cha đặt đâu con xin ngồi đấy”, thì Cả Sứt phản ứng liền. Anh ta nói theo kiểu nhại “cha đặt đâu con xin ngồi đấy! Đặt vào chỗ êm đẹp thì chớ, nhỡ ông ấy đặt mày vào đống chông đống gai mày cũng ngồi thì liệu có thủng ruột mày ra không” ([6]). Kể ra trong lời ăn tiếng nói của Cả Sứt, cũng có những câu nghe được, mà câu này là được nhất. Tôi đồ rằng, chính Chèo cổ đã mượn Cả Sứt để phê phán những cái giả dối làm bộ của xã hội, thậm chí cả những lễ giáo phong tục đã trở thành lỗi thời, mà cụ thể là lễ giáo phong tục cưới xin, trong đó có cả lễ vu quy, lễ tơ hồng, có cả việc chia của hồi môn cho cô dâu, và đặc biệt là phê phán cái chữ Tòng vốn được lễ giáo phong kiến rất mực đề cao. Cho nên, Cả Sứt đã làm những việc đó theo cách riêng của mình… mà lát nữa các bạn sẽ thấy.

Còn bây giờ, tôi xin nói đôi điều về tiếp nhận của tôi, sau nhiều lần xem mảnh trò “quái đản” này.

Tôi cũng như các bạn… rất buồn cười, buồn cười đến nôn ruột cho trường hợp Cả Sứt với những lời nói, việc làm, cử chỉ, hành động không phù hợp của anh ta. Song, có lúc tôi thấy Cả Sứt thật tội nghiệp; và từ sâu xa nơi cõi lòng, tôi thương Cả Sứt, một con người bỗng bị bao nhiêu cái tật dị đổ lên mình… mà vẫn phải cố làm ra vẻ như không, như bình thường… để tồn tại với cuộc đời, cái cuộc đời đôi lúc nó buộc anh phải chơi lại nó bằng chính những dị tật của anh… Cho nên về sâu xa, tôi thấy trò Cả Sứt dặn em là mảnh trò hài hước, nhưng cũng ẩn giấu cái tính nhân bản và cái ý nhân đạo của nó…

Còn bây giờ, ta hãy xem Cả Sứt làm lễ Tơ hồng và nhìn nó theo cách của anh ta như thế nào.

Cả Sứt: (…) Duy, năm nay là năm nao, tháng này là tháng nào, ngày hôm nay là ngày hôm nao tôi không được biết… Tơ hồng nguyệt lão thiên tiên vị tiền (…)

(…)

          Ngày hôm nay lương thần cát nhật

          Cho các về yên cửa yên nhà

          Trước nữa là nhức óc mẹ cha

          Sau hai họ đánh nhau suýt chết.

Hãy xem Cả Sứt chia của hồi môn cho em.

Cả Sứt: Cha mẹ để cho ba sào ruộng, con trâu, con mèo, đôi gà con, cái cối đá thủng.

Kim Nham: Anh cho em xin ba sào ruộng.

Cả Sứt: Mày xin ba sào ruộng thì trâu tao đem thui à?

Kim Nham: Anh cho em con trâu vậy.

Cả Sứt: Thế ruộng tao bỏ hoang à?

Xuý Vân: Xin anh con mèo.

Cả Sứt: Có mà chuột nó làm loạn.

Xuý Vân: Vậy thì em xin anh đôi gà con.

Cả Sứt: Không được, phải để cho cháu nó chơi. Thôi thì cho cô chú cái cối đá thủng. Sang mà khiêng về

Nói rồi Cả Sứt cởi áo đưa cho em:

Còn anh, anh chả có gì, gọi là cái của mồ hôi ([7]) của anh để sau này may áo cho cháu”. Kể ra Cả Sứt thật quá đáng. Nhưng không quá đáng thì sao là Cả Sứt. Song xét cho cùng, Cả Sứt làm như vậy cũng có cái lý của anh ta. Chả thế mà anh ta từng nói với cô em sắp về nhà chồng, tức là sắp được một cái rất lớn là sung sướng, hạnh phúc… rằng: “Thì tao đã cho mày một cái gia tài to tướng, sung sướng chán đấy thôi em ạ”… Cả Sứt bèn gọi Kim Nham lại và nói: “Cái gì đây hử? Tao nói cho cô chú mày biết, cái thân tao không biết đến bao giờ mới được như cô chú mày đây”. Cho nên, nếu như ta có chạnh lòng mà thương Cả Sứt thì cũng là phải thôi, xét từ tình cảm nhân đạo sâu xa nơi con người.

([1]) Có dị bản chép là: “Nhỡ ông ấy đặt mày vào cái cọc trâu mày cũng ngồi thì liệu có thủng ruột mày ra không?”.

([2]) Trang trí hiện đại cho vở Kim Nham: Một tấm mạng nhện giăng đầy sau sân khấu.

([3]) Tất nhiên là các cụ đã phê phán các cô…

([4]) Cái mới trong khoa học xã hội. Viện TTKHXH 1992, số 32, tập 5 (Văn học và Ngôn ngữ học Tr. 43).

([5]) Cả Sứt còn nói chữ, trong Kinh thi.

([6]) Xem thêm ở chương trên.

([7]) Nói ngược từ hồi môn.