Người Việt nghe gì, xem gì trong 10 năm trước Đổi mới

Đa số nghe đài, đi xem hội diễn, gia đình có điều kiện xem tivi đen trắng Nép-tuyn, sang hơn thì đổi đồng hồ Peugeot lấy vé xem kịch hay phim chiếu rạp.

Sau năm 1975, cả nước bước vào thời bao cấp, thay vì chỉ miền Bắc như trước đó. Trong bối cảnh đời sống hậu chiến nhiều khó khăn, phương tiện giải trí còn nghèo nàn.

Nhà sử học Dương Trung Quốc nhớ lúc đó truyền hình bắt đầu đến với người dân nhưng thời lượng ít, chủ yếu tin tức, nội dung chính trị. Văn nghệ trên tivi thường là vài bài hát huy động mọi người ra mặt trận, một số vở kịch, phim truyền hình của các nước Xã hội Chủ nghĩa, vẫn với mục tiêu chính là tuyên truyền.

NSND Lê Tiến Thọ – chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch – nhớ sau năm 1975, ở miền Bắc chỉ một số cơ quan mới có tivi. Đến 1985, gia đình nào oách lắm mới có. “Hồi 1985, tôi đi Nga về có cái tivi đen trắng, mỗi lần đá bóng cả khu văn công Mai Dịch đổ sang xem, xì xụp suốt đêm. Có lần đoàn tuồng chúng tôi lên trụ sở của đài khi đó ở 58 Quán Sứ để diễn vở cho truyền hình, được một phiếu mua tivi Nép-tuyn (Neptune). Tối cả đơn vị ngồi xem phải vỗ vỗ mới lên được hình”, ông Thọ nhớ.

Ở miền Nam, từ năm 1976, Đài Vô tuyến Truyền hình Sài Gòn Giải phóng được đổi tên thành Đài Truyền hình TP HCM, chủ yếu phát các chương trình chính trị, xã hội, văn hóa.

Khi truyền hình chưa phát triển, để giải trí, người dân phần lớn nghe đài, dự các hội diễn văn nghệ quần chúng hay xem xiếc, xem kịch, đi nghe nhạc…

Sân khấu giữ một vị trí quan trọng với người dân cả nước giai đoạn này.

Ở Hà Nội, sân khấu kịch nói phát triển mạnh mẽ. “Lúc bấy giờ, ra vở nào khán giả cũng đón nhận hào hứng. Nhà hát Kịch, rạp Công An, Đại Nam, Công Nhân, Nhà hát Lớn… có khán giả xếp hàng dài. Thậm chí, có người đổi đồng hồ Peugeot để lấy một đôi vé đi xem kịch. Lúc bấy giờ họ ở chiến trường ra, được xem một vở diễn thì sướng lắm”, NSND Lê Tiến Thọ kể.

Đội ngũ đạo diễn mạnh gồm các tên tuổi như Phạm Đình Nghi, Phạm Thị Thành, Đoàn Anh Thắng… đều được đào tạo ở Nga. Về tác phẩm, Lưu Quang Vũ gây tiếng vang với Tôi và chúng ta, Lời thề thứ chín, Hồn Trương Ba, da hàng thịt…, Doãn Hoàng Giang với Hà My của tôi

Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam – Lê Thế Vinh – nhớ sự phát triển của sân khấu khi đó còn thể hiện qua hoạt động rầm rộ của phe vé. Các đoàn thường đùa với nhau phe vé là hội đồng thẩm định nghệ thuật thứ hai. “Hội đồng phe vé rất nhanh nhạy, hễ vở nào họ ôm vé là y như rằng thành công”, ông Vinh đùa.

Ngoài diễn ở thành thị, các đoàn đi khắp nơi để diễn cho người dân. Khán giả nô nức kéo đến. Mỗi đêm đến 3.000, 4.000 người, xếp hàng mua vé, chen chúc, thậm chí đánh nhau. Chỉ tiêu của các đoàn là mỗi năm dựng hai, ba vở và khoảng hơn 200 buổi đi biểu diễn phục vụ cả nước.

Thời gian này, sân khấu truyền thống (tuồng, chèo…) đứng trước thách thức của thị hiếu mới. Theo NSND Lê Tiến Thọ, để có thể tồn tại, sân khấu truyền thống phải chấp nhận cải biên. Đặc biệt, sau 1975, nhiều nghệ sĩ cải lương từ trong Nam như Thanh Kim Huệ, Út Bạch Lan, Minh Vương, Lệ Thủy đổ bộ ra Bắc, trở thành “ông hoàng bà chúa” trong khoảng vài năm.

Ở TP HCM và cả miền Nam lúc đó, kịch nói và cải lương vẫn hoạt động mạnh. Sân khấu cải lương phía Nam có hai hình thức: tư nhân và Nhà nước. Dù vậy, hầu hết đoàn hát cải lương cũ bị giải tán, thay bằng những đoàn mới do các cơ quan, đoàn thể Nhà nước thành lập.

NSND Bạch Tuyết nhớ các đoàn cải lương Sài Gòn 1, Sài Gòn 2, Thanh Minh – Thanh Nga, Văn công Thành phố… hoạt động sôi nổi. Mỗi đoàn đều có nhà hát, trụ sở riêng để tập luyện. Các vở chủ đề xã hội, dân gian, lịch sử như Tiếng trống Mê Linh, Tâm sự Ngọc Hân, Đời cô Lựu, Tiếng hò sông Hậu, Khách sạn hào hoa… được dàn dựng hoành tráng. Nghệ sĩ kể đầu năm 1979, bà được mời diễn vai Dương Vân Nga trong vở cùng tên tại Nhà hát Trần Hữu Trang.”Chúng tôi phải diễn một ngày hai hoặc ba suất mới có thể đáp ứng phần nào yêu cầu của khán giả. Có lúc, người xem các nơi phải đặt vé trước hàng tháng”.

Về kịch nói, một thời gian dài, các vở Dưới hai màu áo, Lá sầu riêng, Huyền thoại mẹ… chinh phục người xem. Nữ nghệ sĩ Kim Cương nhớ khi vở Lá sầu riêng được đưa lên truyền hình đã tạo cơn sốt không chỉ miền Nam mà cả khán giả phía Bắc.

Nam bộ khi đó còn chứng kiến thời kỳ hoàng kim của hát bội. Các đêm hát bội vẫn có vé chợ đen và được xem là loại hình được xếp ngang hàng với cải lương và kịch nói.

Âm nhạc cũng phát triển phong phú hơn trong đời sống người dân so với thời kỳ chiến tranh và có sự chuyển hướng ở cả hai miền.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, sau thống nhất, ngoài các ca khúc chính trị – cách mạng trên đài, tivi hay loa phát thanh, miền Bắc bắt đầu tiếp xúc với máy hát, băng đĩa và một số loại hình nghệ thuật từ miền Nam. Những ca khúc tiền chiến, nhạc Trịnh Công Sơn về tình yêu, triết lý đời sống, nhạc phản chiến được lưu truyền mạnh, dù không phát trên những phương tiện truyền thông Nhà nước. Đó là lúc văn hóa đô thị Sài Gòn bắt đầu ảnh hưởng ra miền Bắc.

Ở miền Nam, đời sống âm nhạc lại chuyển hướng theo cách khác. Tại TP HCM, nhạc trẻ, sinh hoạt bar, club rộn ràng trước đây đã hoàn toàn vắng bóng. Khoảng năm 1977 trở đi, phong trào hát ca khúc chính trị phát triển rầm rộ. Những nhạc phẩm như Xuân chiến khu, Tiếng chày trên sóc Bom Bo, Trường Sơn Đông – Trường Sơn Tây, Trị An âm vang mùa xuân, Viếng lăng Bác…. vang lên khắp nơi.

Ca sĩ Ánh Tuyết – một thời là giọng hát đình đám ở miền Trung – nhớ phong trào này rất mạnh ở Quảng Nam – Đà Nẵng, Huế, Nha Trang. “Thời đó ở Huế, một đêm tôi chạy show hai điểm như Rạp Hưng Đạo, cung An Định. Rồi chạy show hát ở các đại học, nhà máy hay chui xuống hào làm đá hát cho công nhân nghe”, Ánh Tuyết nhớ lại.

Tại TP HCM, từ sau năm 1982, các tụ điểm ca nhạc như 126 (nay là Cầu Vồng), tụ điểm Kỳ Hòa (quận 10), Phú Thọ (quận 11), Tao Đàn (quận 1)… phát triển mạnh, thu hút nhiều ca sĩ ngôi sao như Ngọc Anh, Nhã Phương, Bảo Yến, Hồng Hạnh, Họa Mi… Những đêm diễn có tụ điểm thu hút hàng nghìn khán giả. Không chỉ công nhân viên chức, người lao động cũng có thể đến xem với giá vé mềm. Có tụ điểm thường xuyên tổ chức các buổi văn nghệ miễn phí quy tụ nhiều ca sĩ được yêu thích.

Đến khoảng năm 1985 – 1986, phong trào ca khúc chính trị giảm nhiệt, nhiều bài hát mới được sáng tác có màu sắc đa dạng hơn của Nguyễn Ngọc Thiện, Từ Huy, Thanh Tùng, Trần Tiến, Dương Thụ, Phú Quang…

Điện ảnh cả nước khi đó chưa phổ biến nhưng đi sâu về chất lượng cả ở nội dung lẫn cách thưởng thức.

Đạo diễn Đặng Nhật Minh kể ở Hà Nội và TP HCM thời đó có một mạng lưới rạp chiếu phim nhựa từ thời cũ để lại. Khi đó chưa có âm thanh nổi, âm thanh vòm và các multiplex (rạp liên hợp) như bây giờ. Ngoài tác phẩm điện ảnh Việt, rạp còn chiếu phim nước ngoài (chủ yếu phim Nga) với hình thức đọc lời thoại kèm theo trong lúc chiếu. Âm thanh và lời thoại của phim thường bị dìm đi để nghe rõ tiếng đọc thuyết minh.

Theo đạo diễn, thời đó người lớn tuổi cũng hay đi xem phim chứ không như bây giờ khán giả đa số là thanh thiếu niên. Các phim giải trí, hành động rất ít. “Đi xem phim là để thu hoạch một điều gì bổ ích cho cuộc sống, cho tâm hồn. Thời đó không ai quan niệm điện ảnh là giải trí”. Theo đạo diễn, chính nhờ vậy mà thời bao cấp điện ảnh có những tác phẩm để đời như Mối tình đầu, Bao giờ cho đến tháng 10… Chỉ có các hãng phim của nhà nước và một nhà phát hành là Phát hành phim Trung ương vào giai đoạn này.

“Trung bình mỗi năm sản xuất từ 15 đến 20 phim truyện và vài chục phim tài liệu hoạt hình. Nội dung chủ yếu phục vụ những nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ tuy vậy cũng có những phim đề tài tâm lý xã hội, phê phán những mặt tiêu cực trong đời sống”, Đặng Nhật Minh nói.

Ở miền Nam, mảng phim ảnh không sôi nổi bằng các loại hình khác nhưng vẫn để lại dấu ấn sâu đậm. Vì chuyện cơm áo gạo tiền, người đến rạp xem phim vẫn còn hạn chế. Nhiều khán giả lâu lâu mới có dịp đi xem phim một lần. Chỉ đến khi phim như Ván bài lật ngửa (1982) công chiếu, khán giả ‘rồng rắn’ kéo nhau đến rạp, tạo không khí đình đám.

“Bộ phim thật sự tạo ‘cơn sốt’ với khán giả cả nước vì đạo diễn Lê Hoàng Hoa đã làm phim đề tài cách mạng theo phong cách hoàn toàn khác hẳn các bộ phim trong nước giai đoạn này. Ván bài lật ngửa đậm chất giải trí, cuốn hút người xem chứ không cường điệu hay nặng về tuyên truyền”, NSƯT – đạo diễn Lê Cung Bắc chia sẻ.

Trong 10 năm, Xí nghiệp phim tổng hợp (sau này gọi là hãng phim Giải phóng) cùng hãng phim Nguyễn Đình Chiểu trực thuộc thành phố đã cho ra đời 50 bộ phim nhựa gồm 14 phim màu, 36 phim đen trắng, trong đó có nhiều phim gây sốt như Cánh đồng hoang (1979), Ván bài lật ngửa, Mùa gió chướng

Năm 1981, Sài Gòn có phim màu chiếu rạp đầu tiên – phim Về nơi gió cát (biên kịch và đạo diễn Huy Thành) – quy tụ các diễn viên Hương Xuân, Hồ Kiểng, Trần Vịnh… Bộ phim được khán giả ủng hộ nhiệt tình vì mới lạ so với dòng phim đen trắng. Báo chí thời đó dành nhiều trang viết về bước tiến mới của loại hình phim chiếu rạp.

(Nguồn: Hoàng Thanh Vân – Báo Điện tử Vnexpress)

Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch: Chương trình nghệ thuật Chào năm mới 2017

Đây là chương trình nghệ thuật tổng hợp được xây dựng từ những tiết mục tiêu biểu của hầu hết các đơn vị nghệ thuật, cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ VHTTDL với nhiều bộ môn nghệ thuật thuộc hai loại hình nghệ thuật Sân khấu và Ca múa nhạc do Bộ VHTTDL tổ chức. Chương trình sẽ diễn ra vào 20h00 các ngày 21, 22, 23.12.2016 tại Nhà hát Lớn, số 1 Tràng Tiền, Hà Nội.

Chương trình do Cục Nghệ thuật biểu diễn, Văn phòng Bộ VHTTDL và Nhà hát Lớn Hà Nội chủ trì thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Ngọc Thiện cùng các trợ lý: NSND Ngô Hoàng Quân; NSND Nguyễn Minh Thông; NSND Quang Vinh.

Chương trình sẽ huy động lực lượng nghệ sĩ, ca sĩ, nhạc công, diễn viên của: Học viện Âm nhạc Quốc gia VN, Học viện Âm nhạc TP.HCM, Học viện Âm nhạc Huế, Nhà hát Ca múa nhạc VN, Nhà hát Nhạc vũ kịch VN, Nhà hát Nghệ thuật đương đại VN, Dàn nhạc Giao hưởng VN, Nhà hát Ca múa nhạc dân gian Việt Bắc, Nhà hát Chèo VN, Nhà hát Tuồng VN, Nhà hát Cải lương VN, Nhà hát Múa rối VN.

Thiết kế sân khấu của chương trình sẽ được làm mới và có hệ thống màn hình LED thay thế cho phông phía sau và hai bên cánh gà. Các nhà thiết kế sẽ sử dụng phông mềm, máy chiếu để thay đổi không gian, chuyển cảnh, đạo cụ, sắp xếp đội hình nhạc công, nghệ sĩ cho các tiết mục sử dụng nhiều nhạc cụ, diễn viên.

Chương trình có tổng thời lượng khoảng 120 phút với các phần: Khai từ và 2 phần nội dung chính. Màn khai từ là trình diễn của Dàn nhạc Giao hưởng VN với bản giao hưởng “Người về đem tới ngày vui” (âm nhạc: Văn Cao – Trọng Bằng, chỉ huy: Nhạc trưởng Honna Tetsuji). Nội dung Phần một là các tiết mục nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Phần hai là các tác phẩm nghệ thuật ca múa nhạc phát triển từ chất liệu dân gian, truyền thống cùng một số tác phẩm cổ điển châu Âu.

Sẽ có những tiết mục dàn dựng đặc biệt như nhạc cảnh Cung chúc tân xuân với sự phối hợp biểu diễn giữa các làn điệu (Chèo) Sử xuân và Tứ quý cùng Hề mồi, Hề gậy, Múa cờ và Ông già cõng vợ đi xem hội (Tuồng) do nghệ sĩ Nhà hát Chèo Việt Nam và Nhà hát Tuồng Việt Nam phối hợp biểu diễn. Có rất nhiều ca khúc đơn ca ở nhiều thể loại được các nghệ sĩ, ca sĩ tên tuổi của các đơn vị nghệ thuật trình diễn như: Bài vọng cổ tôi yêu (NSND Vương Hà), Gọi Anh (NSƯT Mã Minh Huệ và tốp múa Nhà hát Ca múa nhạc dân gian Việt Bắc”, hát chầu văn Huế trọn nghĩa tình (ca sĩ Mai Chung và tốp múa Nhà hát Ca múa nhạc VN), Mẹ yêu con (ca sĩ Anh Thơ và Dàn nhạc Giao hưởng dân tộc Học viện Âm nhạc Quốc gia VN thực hiện), Tổ quốc gọi mình (NSƯT Tạ Minh Tâm và tốp múa Nhà hát Nhạc vũ kịch VN), Hòa tấu Ngư phủ Triều khúc (ca sĩ Đức Liên và Dàn nhạc Nhà hát Ca múa nhạc VN), Thời hoa đỏ (NSND Thái Bảo trên nền tốp múa Nhà hát Ca múa nhạc VN)…

Các tiết mục song ca và biểu diễn tập thể: Múa rối Vũ điệu tâm linh (Nhà hát Múa rối VN), Múa những bông đỏ của rừng (tốp múa nữ Nhà hát Ca múa nhạc Dân gian Việt Bắc), Tình ca mùa xuân (Song ca nam nữ và tốp múa Nhà hát Ca múa nhạc VN), Lời ru của rừng (tốp múa Nhà hát Nhạc vũ kịch VN), Acapella Dòng sông thương nhớ (song ca cùng dàn ca sĩ Nhà hát Ca múa nhạc VN), Song tấu sáo trúc Cánh chim tự do (Nhà hát Nghệ thuật đương đại VN), Những ánh trăng đỏ (tốp múa Nhà hát Ca múa nhạc VN), Ballet Những đóa hồng (tốp múa Nhà hát Nhạc vũ kịch VN).

Quy tụ lực lượng tác giả, đạo diễn, biên đạo múa, nhạc sĩ và nghệ sĩ biểu diễn đều là những đại diện tiêu biểu, nòng cốt của hai loại hình nghệ thuật sân khấu và ca múa nhạc, chương trình nghệ thuật chào năm mới 2017 sẽ mang tới cho khán giả thủ đô một chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp được dàn dựng công phu, thiết kế quy mô và một không gian thưởng thức nghệ thuật tinh tế, sang trọng.

Đào Anh; ảnh: Trần Huấn

(Trích đăng lại tin từ Báo văn hóa điện tử)

 

Hành trình xây dựng những vở chèo cổ mẫu mực của Nhà hát Chèo Việt Nam

Với phương châm phục hồi, phát triển nghệ thuật truyền thống phải nhằm phục vụ cho cuộc sống đương thời, năm 1956, trong hàng chục viên ngọc của kho tàng truyền thống, Đoàn và Ban Nghiên cứu chèo đã tiến hành lựa chọn để phục hồi lần đầu tiên 3 vở chèo cổ: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ  Súy Vân theo các tiêu chuẩn cơ bản: là những trò diễn nổi tiếng được nhân dân xưa nay ưa chuộng; thuộc dạng thực nghiệm trên ba lĩnh vực: chỉnh lý, cải biên, viết lại. Và đặc biệt phải có trò diễn phong phú, mô hình nhân vật đa dạng.

Ngay từ khi mới thành lập, Tổ Chèo (trong Đoàn Văn công Nhân dân Trung ương), rồi Đoàn Chèo nhân dân Trung ương, tiền thân của Nhà hát Chèo Việt Nam, đã hội tụ được hầu hết các nghệ nhân tài ba của ngành chèo cả nước như các cụ: Năm Ngũ, Dịu Hương, Trần Thị Hảo, Trùm Thịnh, Trịnh Thị Lan (Cả Tam), Lý Mầm, Hồng Lô, Minh Lý, Thanh Hảo, Khúc Văn Đẩu, Minh Phương. Phạm Thị Lừng (Phẩm), Lệ Hiền, Nguyễn Quang Mai, Lê Văn Ly, Nguyễn Thị Định, Vũ Khắc Bảy, Hoàng Văn Tắc, Nguyễn Phú Quang, Mai Văn Đá… và một lực lượng khá phong phú những cán bộ nghệ thuật những nghệ sĩ chèo trẻ tuổi: các nhà thơ Thế Lữ, Lưu Quang Thuận, Tú Mỡ, Trần Huyền Trân, nhà văn Trần Vượng, các đạo diễn Đặng Đình Hưng, NSND Trần Bảng, Chu Ngọc, Phạm Văn Khoa, Trần Hoạt, các nhạc sĩ Hoàng Kiều, Bùi Đức Hạnh, Nguyễn Xuân Khoát, các NSND Chu Văn Thức, Mạnh Tuấn, Bạch Tuyết, Bùi Trọng Đang, Diễm Lộc, các NSƯT Thúy Lan, Ngô Bích, Thanh Chức…

Chính đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ ưu tú này đã trực tiếp làm nên những điều kỳ diệu là những vở chèo nổi tiếng từ trong chiến khu Việt Bắc như Tát nước cấy chiêm, chị Trầm, chị Tấm anh Điền… và khi hòa bình lập lại (tháng 1 – 1955) Tổ chèo được chuyển thành Đoàn Chèo Nhân dân Trung ương. Dưới sự chỉ đạo của đạo diễn Trần Bảng (Trưởng đoàn đồng thời kiêm Trưởng ban Nghiên cứu chèo), cùng với nhiệm vụ xây dựng các tiết mục chèo đề tài mới là nhiệm vụ sưu tầm nghiên cứu và khai thác truyền thống.

ban-nghien-cuu-cheo

Ban nghiên cứu Chèo

Với phương châm phục hồi, phát triển nghệ thuật truyền thống phải nhằm phục vụ cho cuộc sống đương thời, năm 1956, trong hàng chục viên ngọc của kho tàng truyền thống, Đoàn và Ban Nghiên cứu chèo đã tiến hành lựa chọn để phục hồi lần đầu tiên 3 vở chèo cổ: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ  Súy Vân theo các tiêu chuẩn cơ bản: Là những trò diễn nổi tiếng được nhân dân xưa nay ưa chuộng; thuộc dạng thực nghiệm trên ba lĩnh vực: chỉnh lý, cải biên, viết lại. Và đặc biệt phải có trò diễn phong phú, mô hình nhân vật đa dạng.

1. Chỉnh lý

Quan Âm Thị Kính là vở diễn đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ… Tác giả Trần Huyền Trân được giao nhiệm vụ chỉnh lý kịch bản, cùng cộng tác còn có nhạc sĩ Ngọc Chung, các họa sĩ Nguyễn Đình Hàm, Sĩ Ngọc, Quang Phòng… Tất cả các nghệ nhân (Trùm Thịnh, Cả Tam, Minh Lý, Nguyễn Thị Lừng, Trần Văn Linh, Lệ Hiền…) đều vừa nhớ lại vừa sắm vai và truyền nghề cho các diễn viên trẻ. Ê kíp sáng tạo không chỉ làm một việc là ổn định các lớp lang trước hoặc sau cho lôgic; đối chiếu chỉnh đốn các từ các câu trại bẹ hoặc làm sáng tỏ các đoạn lời trò về mặt tình ý cho phù hợp với người xem hôm nay. Mà thực sự là một cuộc đi tìm, khám phá ra những bí ẩn của nghệ thuật bởi những trái tim nghệ nhân nhân hậu và những nghệ sĩ tài năng trẻ đầy tâm huyết với nghề. Sự phân chia màn, lớp một cách logic, sân khấu bừng sáng với cảnh trí ước lệ và phục trang vừa tinh tế vừa rực rỡ và nghệ thuật biểu diễn xuất thần của các diễn viên đã tạo nên một vở diễn chèo (cổ) thành công đến bất ngờ. Vở diễn không phải là kết quả của việc phục hồi, tái tạo đơn giản mà còn là sự sáng tạo của tất cả các thành phần tham dự…

picture-170

Một cảnh trong vở “Quan Âm Thị Kính”

Sau lần dựng thứ 3 năm (1980) vở diễn Quan Âm Thị Kính đã được nâng cao chất lượng nghệ thuật từ xây dựng chủ đề, chủ đề tư tưởng đến việc đi tìm hình tượng trò diễn, hình tượng các nhân vật… Những mảng diễn hay và độc đáo đã được bảo tồn, phục hồi một cách nguyên vẹn nhất. Thành công của Đạo diễn và ê kíp sáng tạo là biết nhấn mạnh vào số phận, vào lòng nhân ái, từ bi hỉ xả của Thị Kính, không còn là một Thị Kính sướt mướt buồn thảm trong suốt vở diễn. Cũng từ nỗi đau tột cùng khi mất hết hạnh phúc gia đình đã khiến Thị Kính vào chùa giác ngộ nhanh chóng đạo lý nhà Phật. Thị Kính bình thản trở lại và đối xử với người đời bằng tấm lòng từ bi hỷ xả. Đến lần thứ ba dựng lại thì hình tượng nhân vật Thị Kính mới trở nên hoàn chỉnh: Thị Kính không những không thù hận mà còn tự nguyện nuôi dưỡng hạt máu rơi của Thị Màu thành con người. Thị Kính chịu trận đòn oan của làng và rời chùa ra ở mái tam quan không một lời cầu xin than khóc.

Còn về mặt nghệ thuật: vở diễn trở lại lối diễn sân đình của chèo cổ, đưa dàn đế và dàn nhạc cùng biểu diễn trên sân khấu, sử dụng lối ra trò sinh động của truyền thống, lối giao lưu đầy ngẫu hứng với dàn đế, dàn nhạc tạo nên không khí vui chơi hội hè đã đem lại cho vở diễn một hình tượng nghệ thuật bất diệt: Thị Kính từ đám bùn đen vươn lên một bông hoa ngát hương, bùn đen biểu tượng cho một xã hội phong kiến suy đồi đầy rấy những tàn bạo công.

Tấm lòng từ bi hỷ xả của Thị Kính ngời sáng lên giữa một xã hội phong kiến suy tàn, đầy bất công và oan trái. Những nhân vật điển hình cho từng lớp người trong xã hội phong kiến xưa đều được miêu tả rất sống động, rất thực bằng phương tiện diễn tả hát múa của chèo, bằng những hình tượng, những mảnh trò ước lệ cao mang tính biểu trưng và ẩn dụ. Mỗi lớp trò là một khuôn mẫu trong nghệ thuật chèo cổ.

Có thể nói vở Quan Âm Thị Kính qua bàn tay của đạo diễn Trần Bảng và ê kíp sáng tạo đã trở thành một trò diễn mẫu mực nhất. Vở diễn có giá trị không những như một cổ vật còn nguyên vẹn mà nó còn là một trò diễn hay mang tính kinh điển về nghệ thuật chèo. Trở thành một vở diễn truyền thống của nhiều Nhà hát và các đoàn chèo trong cả nước, vở Quan Âm Thị Kính đã được đi biểu diễn trọn vẹn cả vở ở nhiều nước trên thế giới.

2. Cải biên chèo cổ

Là những vở diễn lấy từ tích chèo cổ nhưng được cải biên, thay đổi hẳn lại chủ đề. Tiêu biêu nhất cho khuynh hướng này là vở Vân (năm 1962).

Được cải biên từ vở chèo cổ Kim Nham, vở  Súy Vân ngợi ca sức sống mãnh liệt của người phụ nữ dám đứng lên chống lại sức mạnh của dư luận, của tập quán phong kiến về chế độ đa thê, coi thường người phụ nữ.

Lấy Kim Nham chưa được bao lâu thì Kim Nham lên Kinh thành thi cử, Súy Vân vừa tần tảo lo mọi công việc nhà chồng,vừa mong ngóng chờ đợi chồng trở về. Khi Kim Nham thi đỗ trở về, niềm vui hạnh phúc vừa bừng nở thì Kim Nham hé lộ ra muốn cưới vợ lẽ. Súy Vân vì luôn khao khát hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn, nên kiên quyết không chịu, nàng hết lòng khuyên can chồng, nhưng Kim Nham và mẹ chồng một mực không nghe. Thất vọng, nàng lên chùa cầu cứu Phật Bà thì gặp Trần Phương – một gã phong  tình trăng gió – đã âm mưu cùng bà mối lừa Súy Vân. Súy Vân giả dại về đòi li dị với Kim Nham. Khi được tự do, nàng ra bến sông- nơi Trần Phương đã hẹn, nhưng chờ mãi, cuối cùng chú Hề mang thư của Trần Phương đến, Trần Phương đã phụ tình nàng. Uất hận, nàng trẫm mình xuống dòng sông.

Để bảo tồn được những độc đáo của vở Kim Nham cổ, đạo diễn Trần Bảng và đồng nghiệp trước hết tập trung vào vào trích đoạn Vân Dại nổi tiếng, nghiên cứu từng động tác, từng loài hát để tìm ra tính cách và động tác chủ đạo của Súy Vân làm cơ sở cho sự xây dựng các mảng diễn khác. Súy Vân là một tâm hồn mãnh liệt, yêu cuộc sống sôi nổi dám đứng lên chống lại với sức mạnh của dư luận, của tập quán phong kiến. Súy Vân là người con gái mà xã hội phong kiến xếp vào hàng nghịch nữ nhưng trước con mắt của đương thời thì là một tính cách hiếm có, nó như một ngọn đuốc bùng lên trong đêm tối mịt mù của xã hội cũ. Vở diễn đã gìn giữ và phát huy được nhiều mảng trò và làn điệu chèo hay cũng như nhiều loại vai diễn mẫu mực của vở chèo cổ.

Sau hơn nửa thế kỷ, vở Súy Vân (chèo cổ cải biên) vẫn tồn tại và trở thành một trong những tiết mục truyền thống trên sàn diễn Nhà hát Chèo Việt Nam và nhiều Nhà hát, nhiều đoàn Chèo địa phương trong cả nước.

3. Viết lại chèo cổ

Từ tích cổ Lưu Bình Dương Lễ, nhà văn Hàn Thế Du đã viết vở Châu long dệt gấm (sau đổi là Lưu Bình Dương Lễ) đạo diễn Chu Ngọc đã tạo nên một vở diễn trữ tình lãng mạn, giàu chất thơ về một tình bạn cao cả, nhấn mạnh đến vai trò của nàng Châu Long.

img_4122

Vở “Lưu Bình Dương Lễ’

Viết lại từ tích chèo cổ Trương Viên, nhấn mạnh đến vai trò của viên ngọc gia bảo, tác giả Vinh Mậu năm 1989 cũng viết lại vở cổ với tên Đôi ngọc truyền kỳ, khai thác thêm sự thủy chung của nhân vật Trương Viên bằng cách để cho Trương Viên sau khi thắng trận trở về được Nhà vua tin dùng và được công chúa yêu tha thiết. Lúc Trương Viên dao động, tình cảm hơi ngả về công chúa… viên ngọc chàng mang theo bỗng nhiên mờ đi. Cứ lòng xấu là viên ngọc tối dần. Chính nhờ viên ngọc ấy mà Trương Viên thức tỉnh, nhớ lại tất cả, quyết từ bỏ mọi vinh hoa để trở về tìm mẹ và vợ. Giáo sư,đạo diễn NSND Trần Bảng đã dàn dựng kịch bản này rất thành công trên sân khấu Nhà hát Chèo Việt Nam với một dàn diễn viên cựu phách: NSƯT Thúy Ngần vai Thị Phương; NSƯT Đức Nghiêu vai Trương Viên, NSƯT Thanh Bình vai mẹ Trương Viên… Và mùa thu tháng 9 – 2012, Nhà hát Chèo lại ra mắt vở diễn Trương Viên do đạo diễn Vũ Ngọc Minh dàn dựng với một dàn diễn viên tài năng hát hay, múa đẹp: NSƯT Thùy Dung vai Thị Phương, NSƯT Thanh Mạn vai mẹ Trương Viên, NSTài năng Tuấn Tài vai Trương Viên, NS Ngọc Hưng vai Thừa tướng, NS Trần Hải vai Thổ địa, NS Thúy Hạnh vai Quỷ cái; NS Hương Dịu vai Tiên Mẫu… cũng là các vở diễn lấy nguyên kịch bản chèo cổ chỉ qua chỉnh lý. Đạo diễn đã thành công khi giữ được cho vở diễn một cấu trúc kể chuyện mạch lạc.

Canh vở "Trương Viên" 2012, ảnh Phi Hùng
Cảnh trong vở “Trương Viên” 2012, ảnh Phi Hùng

Mỗi một êkip sáng tạo ở những thời điểm khác nhau đều có những chủ ý riêng của mình. Tuy nhiên, trong tích hát (kịch bản) câu chuyện về “nàng dâu nuôi mẹ thế gian mấy người” đã là một câu chuyện lạ, cảm động và chan chứa tình yêu thương. Cái sự “lạ” của vở diễn không phải chỉ vì xuất hiện những nhân vật Hổ dữ, Quỷ, Thần linh đầy mầu sắc huyền thoại mà chính là ở những hành động “quên mình” của nhân vật chính. Nó chứng minh điều ngược lại không mấy hay về mối quan hệ “mẹ chồng – nàng dâu” vốn tồn tại dai dẳng từ ngàn xưa. Lòng hiếu thảo lạ lùng của Thị Phương không chỉ là một phẩm chất đạo đức mà còn một nét đẹp Việt nam – sự bình dị, nét đẹp ấy toát lên từ ở tâm hồn, ở tấm lòng của nhân vật. Nó không chỉ làm cảm động được khán giả – những người “trần” bình thường mà còn chinh phục, cảm hóa được cả thần linh

Các nhân vật khác trong vở cũng rất lạ: một quan Thừa tướng vừa oai nghiêm, vừa nhân hậu và có tư tưởng rất tiến bộ về hôn nhân. Ông trao cho con gái và con rể viên ngọc gia bảo như trao biểu tượng của truyền thống yêu thương, thủy chung. Mẹ Trương Viên, một nhân vật lạ không kém. Đó là bà lão nông dân hài hước, rất dân gian, dí dỏm và chan chứa lòng yêu thương mộc mạc chân thành, giống nhưng cũng khác hẳn với trăm nghìn bà mẹ nông dân khác. Nhân vật Quỷ cũng lạ, quỷ hát bài hát của tiên. Nhân vật Hổ hung dữ cũng bỗng hiền từ nhân hậu khi thấy hai mẹ con tranh nhau cái chết về mình. Ông tiên cũng là ông tiên với bầu rượu túi thơ chơi mây chơi gió… sự hài hước giữa các tính cách nhân vật vốn đã tinh túy trong các tích cổ làm cơ sở tạo nên được những lớp diễn lạ, độc đáo.

Sự “lạ” ấy còn được thể hiện trong văn chương, trong ngôn ngữ đối thoại thuần túy dân tộc với đặc tính nôm na, mộc mạc giàu âm điệu hàm chứa ý nghĩa thâm thúy. Dù là chỉnh lý hay viết lại thì hình tượng nhân vật Thị Phương đều đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua các trò diễn Gặp Hổ, gặp Quỷ, Sơn thần khoét mắt… Và đặc biệt chú ý đến vai trò của viên ngọc gia bảo, viên ngọc tác động vào sự phát triển của vở diễn.

Một vở nữa khá thành công là vở Nàng Thiệt Thê viết lại từ tích chèo cổ Chu Mãi Thần. Tác giả Lương Tử Đức đã dụng công xây dựng nhân vật Chu Mãi Thần như là hiện thân của một nhân vật nho sinh đẹp nhất trong chèo cổ, quyết vượt lên mọi khó khăn để đạt được mục đích của mình về sự học, Chu Mãi Thần còn xử sự “đúng như một người quân tử” theo cách nói của giáo sư Vũ Khiêu. Bát thuốc ân tình mà chàng sắc cho Thiệt Thê sau lần gặp lại đã khiến nhiều khán giả rơi nước mắt. Nhân vật Thiệt Thê trong vở diễn được khắc họa một cách hồn nhiên, có nét gì đó giống hình tượng một con bướm, nhởn nhơ khoe sắc không biết nghĩ xa xôi gì về tương lai…

Và đó cũng chính là thông điệp mà các tác giả muốn gửi đến khá giả, bài học về một lối sống không có lý tưởng, chỉ vì những ham muốn vật chất tầm thường trước mắt, một cái giá phải trả cho những sai lầm nông nổi lúc tuổi trẻ. Hình tượng Thiệt Thê bỗng đẹp hẳn lên, hằn sâu trong tâm trí người xem – một số phận Thiệt Thê rất Chèo nhưng đầy âm hưởng hiện đại.

Từ thực tế khai thác vở diễn theo khuynh hướng chỉnh lý, cải biên hoặc viết lại các vở chèo cổ, từ góc nhìn văn hóa, những người làm chèo bỗng nhận ra một vấn đề lý luận, đó là vấn đề tiến tới cổ điển hóa nghệ thuật chèo cổ. Đây chính là quá trình đưa nghệ thuật chèo (cổ) bấy lâu vẫn được xác định là sân khấu dân gian lên sân khấu bác học, từ không chuyên lên chuyên nghiệp, từ bình diện dân tộc lên bình diện quốc gia, quốc tế. Con đường này các bậc tiền bối của Nhà hát Chèo Việt Nam đã bước đầu sáng tạo trong từng vở diễn cụ thể, để đạt tới sự hài hòa giữa các yếu tố nghệ thuật, sự mẫu mực về thẩm mỹ,trên cơ sở phát huy được những tinh hoa vốn có của nghệ thuật chèo cổ.

Như thế, trong chặng đường sáng tạo của Nhà hát Chèo Việt Nam 65 năm qua có một điểm nổi bật đó chính là hành trình đi đến cổ điển hóa nghệ thuật chèo (cổ). Những vở diễn mẫu mực được khai thác từ chèo cổ trên không chỉ là niềm tự hào của Nhà hát mà đã giúp cho các thế hệ của Nhà hát có một vốn nghề phong phú, để làm điểm tựa cho những sáng tạo mới luôn đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Nghệ sĩ Nhà hát Chèo hôm nay hãy biết gìn giữ và phát huy kho báu này để xứng đáng là một đơn vị nghệ thuật đứng đầu ngành chèo cả nước.

Trần Minh Phượng 

Nguồn: Tạp chí VHNT số 388, tháng 10-2016